Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Kinh Cầu Các Thánh Chẳng Hề Được Phong

Theo tác giả dặn dò, đây là bản kinh không chính thức, chưa được Imprimatur và Nihil Obstat, nên không được phép đọc trong… Nhà Thờ, do ngài sốt sắng tự viết ra để cầu nguyện riêng với “các Thánh chẳng hề được phong”!






Xin Chúa thương xót chúng con – Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con – Chúa Kitô nghe cho chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con – Chúa Kitô nhậm lời chúng con.
Đức Chúa Cha ngự trên Trời là Đức Chúa Trời thật – Thương xót chúng con.
Đức Chúa Con chuộc tội cứu thế là Đức Chúa Trời thật – Thương xót chúng con.
Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời thật – Thương xót chúng con.
Ba Ngôi cùng là một Đức Chúa Trời – Thương xót chúng con.

Rất Thánh Đức Bà Maria – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề chấp nhất ai – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề nói xấu ai – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề nghĩ xấu cho bất cứ ai – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề giận dữ oán hờn ai – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề nói tục chửi thề – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề lười biếng lề mề – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề đam mê sắc dục sa hoa – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề cằn nhằn khó tính kêu ca – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề ba hoa kiêu ngạo – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề trộm đạo gian tham – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề nặng óc ích kỷ cá nhân – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề có chuyện tách biệt sứ quân – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề tỵ phân ganh ghét – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề la cà ngồi lê đôi mách – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề yêu sách cầu kỳ – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề biển lận hà tiện chi ly – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề ngờ vực hồ nghi – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề so bì già trẻ cũ mới – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề có óc vụ luật biệt phái – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề kỳ thị giai cấp địa phương – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề thành kiến đóng khung – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề khinh chê kẻ khốn khó bần cùng – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không hề cư xử thiên vị bất công – Cầu cho chúng con.
Các Thánh có nói có, không nói không – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không biết thề dông thề dài – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không phách lối chê bai – Cầu cho chúng con.
Các Thánh nghe lời nói xấu thì bỏ ngoài tai – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn khôi hài vui vẻ – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn ân cần với già trẻ lớn bé – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn quan tâm để ý mọi người – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn giữ nét mặt rạng rỡ vui tươi – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn sẵn sàng mỉm cười tha thứ – Cầu cho chúng con.
Các Thánh cơn giận chẳng giữ quá hoàng hôn – Cầu cho chúng con.
Các Thánh không được phục vụ anh em thì buồn – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn bận tâm đắp vun hòa thuận – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hay săn sóc người già nua bệnh hoạn – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hay an ủi kẻ lâm nạn, tù đày – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hay giúp người gặp họa tai thê thảm – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hay thông cảm với kẻ hàm oan – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hay chia sẻ với kẻ khát uống đói ăn – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hay viếng thăm cô nhi quả phụ – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hay chăm nom người ủ rũ liệt giường – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hay thương lo cho người sắp chết – Cầu cho chúng con.
Các Thánh hằng ngày hy sinh trong công việc âm thầm – Cầu cho chúng con.
Các Thánh bổn phận hằng tận tâm chu toàn – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn đón tiếp mọi người cách hân hoan – Cầu cho chúng con.
Các Thánh dễ cười, dễ ngủ, dễ ăn – Cầu cho chúng con.
Các Thánh dễ quên lầm lỗi, chẳng bàn tới bàn lui – Cầu cho chúng con.
Các Thánh biết xin lỗi ngay khi lỡ lời – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn cầu nguyện cho mọi người xung quanh – Cầu cho chúng con.
Các Thánh luôn để tâm để trí làm việc lành – Cầu cho chúng con.
Các Thánh mỗi ngày thực hành một cử chỉ đẹp – Cầu cho chúng con.
Các Thánh cung cách giản dị mà khuôn phép nết na – Cầu cho chúng con.
Các Thánh sống các nhân đức cách dung hòa – Cầu cho chúng con.
Các Thánh Tin Cậy Mến đều thăng hoa triển nở – Cầu cho chúng con.
Các Thánh lời khấn hứa luôn trung kiên gìn giữ – Cầu cho chúng con.
Các Thánh các mối Phúc Thật luôn ghi khắc tâm tư – Cầu cho chúng con.
Các Thánh học gương Đức Kitô khiêm hạ hiền từ – Cầu cho chúng con.
Các Thánh xác tín cho đi sẽ được đền bù chan chứa – Cầu cho chúng con.
Các Thánh trung thành vác thánh giá mình theo Chúa – Cầu cho chúng con.

Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế – Chúa Giêsu tha tội chúng con…

Lm. Giuse TIẾN LỘC, DCCT
Share:

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

5 năm linh mục


Ngày 8/8/2011 một nhóm linh mục trẻ, những người đã lãnh nhận sứ vụ linh mục cũng ngày này cách đây 5 năm, đã hội ngộ tại giáo xứ Mỹ Hoà, Hà Tĩnh. Đây là các linh mục khoá VI tại Đại Chủng viện Xã Đoài.












Share:

Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2011

Đi chơi Tràng An

Ngày 8/5/2011, cùng với nhóm đan sĩ Xitô - Biển Đức, tôi đi du lịch khu danh lam thắng cảnh Tràng An, Ninh Bình.

Tràng An là một vùng non nước, mây trời hoà quyện. Đáy nước trong xanh soi bóng những vách núi đá trùng điệp. Nơi đây có tới 31 hồđầmnước được nối thông bởi 48 hang động đã được phát hiện trong đó có những hang xuyên thủy dài 2km như hang Địa Linh, hang Sinh Dược, hang Mây... [5] 

Mỗi hang một vẻ đặc trưng như tên gọi, các hang có nhiều nhũ đá biến đổi, nước chảy ra từ trần hang làm không khí trong hang mát lạnh. Hang Tối có lòng hang rộng hẹp biến đổi bất ngờ. Hang Sáng long lanh với những nhũ đá óng ánh kỳ lạ. Hang Nấu Rượu và hang Cơm gần đó với truyền thuyết ông khổng lồ nấu rượu ở đây, mang rượu và cơm ra núi ngồi ăn. Trong hang có mạch nước ngầm sâu hơn 10 m. Tương truyền, các bậc tiền bối đã vào đây lấy nước để nấu rượu tiến vua, khi nạo vét lòng hang các nhà khảo cổ đã phát hiện rất nhiều bình gốm, hũ, vại và các dụng cụ để nấu rượu[6]

Vòng qua hang núi Cơm, sang hang Vồng, ở đây có cây si cổ thụ rễ chùm cả miệng hang. Từ đây sang hang Láng, hang Ao Trai, giữa hang Ao Trai, lòng hang phình ra khoảng 30m (Vi.wikipedia).








Share:

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2011

Thăm chùa Bái Đính















Share:

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2011

Con không có lời ru

Share:

Hạnh phúc vô hình


Có một phú ông vôcùng giàu có. Hễ thứ gì có thểdùng tiền mua được là ông mua về đểhưởng thụ. Tuy nhiên, bản thân ông lại cảm thấy không vui, không hề hạnh phúc.

Một hôm, ông ta nảyra một ý tưởng kỳ quặc, đem tất cả những đồ vật quý giá, vàng bạc, châu báu cho vào một cái bao lớn rồi đi chu du. Ông ta quyết định chỉcần ai có thể nói cho ông làm thế nào để hạnh phúc thì ông sẽ tặng cả bao củacải cho người đó.

Ông ta đi đến đâucũng tìm và hỏi, rồi đến một ngôi làng có một người nông dân nói với ông rằngnên đi gặp một vị Đại sư, nếu như Đại sư cũng không có cách nào thì dù có đikhắp chân trời góc bể cũng không ai có thể giúp ông được.
Cuối cùng cũng tìmgặp được vị Đại sư đang ngồi thiền, ông ta vui mừng khôn xiết nói với Đại sư:“Tôi chỉ có một mục đích, tài sản cả đời tôi đều ở trong cái bao này. Chỉ cầnngài nói cho tôi cách nào đểđược hạnh phúc thì cái bao này sẽ là của ngài”.

Lúc ấy trời đã tối,màn đêm sắp buông xuống, vịĐại sư nhân lúc ấy liền tóm lấy cái túi chạy đi. Phú ông sợ qua, vừa khóc vừagọi đuổi theo: “Tôi bị lừa rồi, tâm huyết của cả đời tôi”.

Sau đó vị Đại sư đã quay lại, trả cái bao lại cho phú ông. Phú ông vừa nhìn thấy cái bao tưởng đã mấtquay về thì lập tức ôm nó vào lòng mà nói: “Tốt quá rồi!”.

Vị Đại sư điềm tĩnhđứng trước mặt ông ta hỏi: “Ông cảm thấy thế nào? Có hạnh phúc không?”

“Hạnh phúc! Tôi cảmthấy mình quá hạnh phúc rồi!”.

Lúc này, vị Đại sưcười và nói: “Đây cũng không phải là phương pháp gì đặc biệt, chỉ là con ngườiđối với tất cả những thứ mình có đều cho rằng sự tồn tại của nó là đương nhiêncho nên không cảm thấy hạnh phúc,cái mà ông thiếu chính là một cơ hội mất đi. Ông đã biết thứ mình đang có quantrọng thế nào chưa? Kỳ thực cái bao ông đang ôm trong lòng với cái bao trước đólà một, bây giờ ông có còn muốn đemtặng nó cho tôi nữa không?”.

Câu chuyện thú vị này đã khiến tôi chợt nhận ra bản thân mìnhtrong đó. Bạn liệu có phát hiện ra rằng, khi mất đi hoặc thiếu thứ gì đó bạn sẽluôn nhớ về nó, nhưng khi có được rồi thì lại dễ dàng coi nhẹ, thậm chí nhìn màkhông thấy nó?

Nếu từng yêu, bạn sẽ hiểu được điều đó. Đối phương gọi điệnhỏi thăm bạn, tặng quà cho bạn đều khiến bạn vui rất lâu. Tuynhiên, một khi bạn đã xác lập mối quan hệ hoặckết hôn thì tất cả sẽ biến mất hoặc tất cả đều biến thành điều hiển nhiên. Vàkhi đó là chuyện đương nhiên, liệu bạn còn trân trọng nó nữa?

Con người luôn quan tâm, hoài niệm thứ đã mất song lại không biếttrân trọng những thứ mình đang có, đang sống trong hạnh phúc mà không biết mình hạnh phúc. Có lẽ, đó chính làbất hạnh lớn nhất của con người và cũng là nguyên do khiến hạnh phúc cứ mãi vôhình.
Share:

Xì hơi


Một chiếc xe tải chở hàng, tài xế không để ý nên bị kẹt dưới gầm cầu. Xe chạy tới không được mà lùi cũng không xong. Rất nhiều người đứng chung quanh nhìn, bàn tán, còn phía sau thì các xe phải dừng lại vì kẹt.
  
Kỹ sư, cảnh sát và chủ hãng xe đều đến. Người thì bàn rằng hãy đào đường cho thấp xuống, người khác lại tính cắt bớt mui xe… nhưng cách nào cũng không ổn, đang khi tình trạng kẹt xe càng lúc một căng thẳng, xe nối đuôi nhau như rồng rắn vậy.
  
 
Lúc ấy có một cậu bé chen vào hiện trường, lớn tiếng nói với tài xế: “Bác tài, cháu chỉ cho bác một cách, bác xì bớt hơi mấy bánh xe đi, xe sẽ thấp xuống và có thể qua được”. Ðám đông cười ồ lên. Còn những chuyên viên thì khó chịu vì con trẻ con mà dám dạy khôn người lớn. Bác tài cũng thế nhưng đành thử vậy, và kết quả tốt đẹp.
  
 
Xì hơi để xe thấp xuống là cách đơn giản, nhưng trong lúc bối rối không ai nghĩ ra, còn em bé nghĩ đến. Em bé nghĩ được cách này vì tâm hồn của em đơn sơ, trong trắng, không băn khoăn về chuyện hư xe, không lo lắng về chuyện bị cảnh sát phạt, không bồn chồn vì làm ăn lỗ lã, không hiếu kỳ chỉ trỏ bình luận...
  
Câu truyện trên có lẽ không thật hoàn toàn, nhưng ít ra cũng giúp cho ta suy nghĩ về cuộc đời, về đời mình. 
  
 
Một khi đời sống của ta bị chi phối và ảnh hưởng quá nhiều về bên ngoài thì cuộc sống sẽ dễ lo sợ, bất ổn, vì ở đời có gì là tuyệt đối đâu. Và cuộc sống sẽ mất quân bình này cũng làm cho tâm hồn bị ảnh hưởng, bị trì trệ và xáo trộn theo.

Muốn đời ta đơn sơ, dù cuộc đời phức tạp.
Muốn đời ta nhẹ nhàng, dù cuộc đời nặng trĩu đôi vai.
Muốn đời ta thanh thản, dù cuộc đời rối ren.
Muốn đời ta hạnh phúc, dù cuộc đời bất hạnh…
Muốn có được sự thư thái cho đời mình.

Ta hãy xì, hãy xả bớt hơi đang căng như quả bóng có thể nổ tung bất cứ lúc nào, dù chỉ gặp một va chạm nhỏ.
  
- Xì bớt hơi đang no căng vì bon chen sự đời, để thấy đời nhẹ nhàng, dịu ngọt.
  
 
- Xì bớt hơi đang no căng vì kiêu ngạo, để gặp gỡ lòng khiêm nhường.  Xì bớt hơi đang no căng vì tham lam, để cuộc đời được thanh thoát.-

Xì bớt hơi đang no căng vì tích trữ, để cuộc đời bớt hành trang thế tục.

- Xì bớt hơi đang no căng vì ghen ghét, để thấy được mọi người thật dễ thương.

- Xì bớt hơi đang no căng vì tư lợi, để thấy được nhu cầu của tha nhân.

- Xì bớt hơi đang no căng vì phe cánh, để thấy được mình chẳng là gì.

- Xì bớt hơi đang no căng vì chống đối, để mọi người được vui hưởng hoà bình.

- Xì bớt hơi đang no căng vì hưởng thụ, để thấy mình còn ý nghĩa cho đời.

- Xì bớt hơi đang no căng vì bất mãn, để thấy được cuộc đời thật đáng yêu.

- Xì bớt hơi đang no căng vì hận thù, để thấy được thứ tha thật ngọt ngào.

- Xì bớt hơi đang no căng vì thắng thua, để thấy được tinh thần cộng tác của anh em.

- Xì bớt hơi đang no căng của oán hờn, để thấy được sức mạnh của nhân từ.

- Xì bớt hơi đang no căng vì nóng giận, để thấy được sự khôn ngoan sáng suốt trong bình tâm.

Nhìn vào các gia đình, sao trước khi đi hôn nhân, họ thật lý tưởng. Họ yêu thương nhau nhiều lắm : sẵn sàng dâng hiến, tha thứ, quên mình, từ bỏ vì người mình yêu. Nhưng khi đã lập gia đình thì cái thứ hơi của cá nhân lại phồng to lên khiến cho gia đình thêm căng thẳng, mất hết ý nghĩa ….
 
Giận nhiều sẽ khổ nhiều. Khổ vì mình không đạt được như ý. Người khác lại phải chịu đau khổ do nóng giận của mình gây ra. Vậy giận làm chi cho mệt. Buồn làm chi cho đời u ám. Và những thứ khác cũng vậy. Cứ vui lên cho đời thêm vui.
    
Ta hãy xì hết mọi thứ hơi của “ thế gian” đã căng lại căng thêm, để thấy mặt trời luôn tươi sáng, hơi ấm được toả ra, tương lai đầy hy vọng, cuộc sống đầy tin tưởng, và luôn thẳng tiến về phía trước trong can đảm. Sẵn sàng bước qua đời này để gặp gỡ, bắt tay với đời sau trong tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi Tình yêu qua những biểu lộ hoàn hảo của Ngài là : trung thành, công minh, chính trực, bao dung, tha thứ, nhẫn nại chờ đợi…
  
 
Khi chiếc xe tải chở thân xác mà bị kẹt, thì tâm hồn của ta cũng bị kẹt luôn. Kẹt giữa đường giữa phố, kẹt vì một vài trục trặc do thất bại, nghèo đói, bệnh tật, thử thách…. ta đừng sợ, hãy can đảm vươn lên.
   
 
Cái đáng sợ nhất, đó là…. kẹt trong linh hồn.
Share:

Xì hơi


Một chiếc xe tải chở hàng, tài xế không để ý nênbị kẹt dưới gầm cầu. Xe chạy tới không được mà lùi cũng không xong. Rất nhiềungười đứng chung quanh nhìn, bàn tán, còn phía sau thì các xe phải dừng lại vìkẹt.
  
Kỹ sư, cảnh sát và chủ hãng xe đều đến. Người thìbàn rằng hãy đào đường cho thấp xuống, người khác lại tính cắt bớt mui xe…nhưng cách nào cũng không ổn, đang khi tình trạng kẹt xe càng lúc một căngthẳng, xe nối đuôi nhau như rồng rắn vậy.
  
 
Lúc ấy có một cậu bé chen vào hiện trường, lớntiếng nói với tài xế: “Bác tài, cháu chỉ cho bác một cách, bác xì bớt hơi mấybánh xe đi, xe sẽ thấp xuống và có thể qua được”. Ðám đông cười ồ lên. Cònnhững chuyên viên thì khó chịu vì con trẻ con mà dám dạy khôn người lớn. Báctài cũng thế nhưng đành thử vậy, và kết quả tốt đẹp.
  
 
Xì hơi để xe thấp xuống là cách đơn giản, nhưngtrong lúc bối rối không ai nghĩ ra, còn em bé nghĩ đến. Em bé nghĩ được cáchnày vì tâm hồn của em đơn sơ, trong trắng, không băn khoăn về chuyện hư xe,không lo lắng về chuyện bị cảnh sát phạt, không bồn chồn vì làm ăn lỗ lã, khônghiếu kỳ chỉ trỏ bình luận...
  
Câu truyện trên có lẽ không thật hoàn toàn, nhưngít ra cũng giúp cho ta suy nghĩ về cuộc đời, về đời mình. 
  
 
Một khi đời sống của ta bị chi phối và ảnh hưởngquá nhiều về bên ngoài thì cuộc sống sẽ dễ lo sợ, bất ổn, vì ở đời có gì làtuyệt đối đâu. Và cuộc sống sẽ mất quân bình này cũng làm cho tâm hồn bị ảnhhưởng, bị trì trệ và xáo trộn theo.

Muốn đời ta đơn sơ, dù cuộc đời phức tạp.
Muốn đời ta nhẹ nhàng, dù cuộc đời nặng trĩu đôi vai.
Muốn đời ta thanh thản, dù cuộc đời rối ren.
Muốn đời ta hạnh phúc, dù cuộc đời bất hạnh…
Muốn có được sự thư thái cho đời mình.

Ta hãy xì, hãy xả bớt hơi đang căng như quả bóngcó thể nổ tung bất cứ lúc nào, dù chỉ gặp một va chạm nhỏ.
  
- Xì bớt hơi đang no căng vì bon chen sự đời, đểthấy đời nhẹ nhàng, dịu ngọt.
  
 
- Xì bớt hơi đang no căng vì kiêu ngạo, để gặp gỡlòng khiêm nhường.  Xì bớt hơi đang no căng vì tham lam, để cuộc đời đượcthanh thoát.-

Xì bớt hơi đang no căng vì tích trữ, để cuộc đờibớt hành trang thế tục.

- Xì bớt hơi đang no căng vì ghen ghét, để thấyđược mọi người thật dễ thương.

- Xì bớt hơi đang no căng vì tư lợi, để thấy đượcnhu cầu của tha nhân.

- Xì bớt hơi đang no căng vì phe cánh, để thấyđược mình chẳng là gì.

- Xì bớt hơi đang no căng vì chống đối, để mọingười được vui hưởng hoà bình.

- Xì bớt hơi đang no căng vì hưởng thụ, để thấymình còn ý nghĩa cho đời.

- Xì bớt hơi đang no căng vì bất mãn, để thấyđược cuộc đời thật đáng yêu.

- Xì bớt hơi đang no căng vì hận thù, để thấyđược thứ tha thật ngọt ngào.

- Xì bớt hơi đang no căng vì thắng thua, để thấyđược tinh thần cộng tác của anh em.

- Xì bớt hơi đang no căng của oán hờn, để thấyđược sức mạnh của nhân từ.

- Xì bớt hơi đang no căng vì nóng giận, để thấyđược sự khôn ngoan sáng suốt trong bình tâm.

Nhìn vào các gia đình, sao trước khi đi hôn nhân,họ thật lý tưởng. Họ yêu thương nhau nhiều lắm : sẵn sàng dâng hiến, tha thứ,quên mình, từ bỏ vì người mình yêu. Nhưng khi đã lập gia đình thì cái thứ hơicủa cá nhân lại phồng to lên khiến cho gia đình thêm căng thẳng, mất hết ýnghĩa ….
 
Giận nhiều sẽ khổ nhiều. Khổ vì mình không đạtđược như ý. Người khác lại phải chịu đau khổ do nóng giận của mình gây ra. Vậygiận làm chi cho mệt. Buồn làm chi cho đời u ám. Và những thứ khác cũng vậy. Cứvui lên cho đời thêm vui.
    
Ta hãy xì hết mọi thứ hơi của “ thế gian” đã cănglại căng thêm, để thấy mặt trời luôn tươi sáng, hơi ấm được toả ra, tương laiđầy hy vọng, cuộc sống đầy tin tưởng, và luôn thẳng tiến về phía trước trongcan đảm. Sẵn sàng bước qua đời này để gặp gỡ, bắt tay với đời sau trong tìnhyêu và vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi Tình yêu qua những biểu lộ hoàn hảocủa Ngài là : trung thành, công minh, chính trực, bao dung, tha thứ, nhẫn nạichờ đợi…
  
 
Khi chiếc xe tải chở thân xác mà bị kẹt, thì tâmhồn của ta cũng bị kẹt luôn. Kẹt giữa đường giữa phố, kẹt vì một vài trục trặcdo thất bại, nghèo đói, bệnh tật, thử thách…. ta đừng sợ, hãy can đảm vươn lên.
   
 
Cái đáng sợ nhất, đó là…. kẹttrong linh hồn.
Share:

Thinh lặng trong Kinh Thánh

Sự thinh lặng của con người trong Kinh thánh

Từ ban đầu, sự thinh lặng của con người rất ít được nhắc đến trong Kinh thánh. Thỉnh thoảng ta có thể gặp nơi Abraham, sự thinh lặng của người tôi tớ muốn lắng nghe (St  24,21), sự thinh lặng vì đau đớn của Giacóp khi hay tin con gái mình bị hãm hiếp (St 34,35) hoặc sự thinh lặng vì kiệt sức của những con người bị bất hạnh vùi dập: “Họ ngồi thinh lặng ngay trên thềm đất, đầu rắc đầy tro bụi, mình mặc áo vải thô” (Ac 2,10).



Trái lại văn chương khôn ngoan đã nhiều lần nhắc đến thinh lặng. Những hiền nhân trong Cựu Ước thường triển khai chủ đề thinh lặng này, và đôi khi xem đó là một phản xạ của một sự thận trọng có tính toán hoặc đơn thuần là một thái độ lịch sự trong xã giao. “Hãy nói cho gọn, ít lời, nhiều ý; làm như kẻ vừa quán triệt vấn đề, vừa biết nín thinh. Giữa hàng quyền chức, con đừng làm như kẻ bằng vai; và khi người khác nói, con chớ bô bô cái miệng” (Hc 32,8-9).

Nhưng nhất là các hiền nhân trong Kinh Thánh dường như có một nỗi nghi ngờ tự bản năng đối với lời nói: “Người năng nói năng lỗi, ai dè giữ lời nói mới là người khôn.” (Cn 10, 19); “Quân vô đạo dùng miệng lưỡi làm hại tha nhân; đứa ngồi lê đôi mách sẽ tiết lộ điều bí mật, còn người tín cẩn giữ kín chuyện riêng tư.” (Cn 11, 9.13); “Người chính trực ghét lời dối trá lọc lừa, kẻ gian ác làm điều xấu xa ô nhục.” (Cn 13,5): “Càng lắm lời, càng nhiều chuyện hão” (Gv 6,11)...

Ai nói quá nhiều khó lòng tránh được hời hợt, hay thiên về việc nói xấu hay vu cáo. “Giữ mồm giữ miệng là bảo toàn mạng sống, khua môi múa mép ắt sẽ thiệt thân” (Cn 13,3); “người không biết giữ miệng ví như một thành bỏ ngỏ, không tường lũy chở che” (Cn 25, 28).

Nghi ngờ đối với lời nói không đúng nơi đúng lúc: “Có lời mắng không đúng lúc, có kẻ thinh lặng mà lại biết điều. Có kẻ thinh lặng mà được kể là khôn ngoan, còn kẻ ba hoa thì đáng ghét. Có kẻ thinh lặng vì chẳng biết nói chi, có kẻ thinh lặng để chờ thời. Người khôn ngoan biết thinh lặng chờ dịp tốt, còn kẻ bép xép, dại khờ lại bỏ lỡ cơ may” (Hc 20, 1. 5-7)...

Việc nói quá nhiều những lời xấu xa chẳng những làm ô danh người khác và còn làm hoen ố tâm hồn mình. Những tác hại của lời vu cáo, của việc không làm chủ miệng lưỡi mình, minh họa trong câu chuyện ngụ ngôn miền Bretagne sau đây:

“Một phụ nữ nọ đã xưng thú rằng mình nói những điều không phải đối với láng giềng, cha xứ bảo bà làm việc đền tội bằng cách đem một con ngỗng lên đỉnh đồi mà nhổ lông trong một ngày lộng gió. Bà đã thi hành. Như khi bà đến báo cáo việc làm của mình, cha xứ yêu cầu là bà đi thu nhặt lại mọi chiếc lông ngỗng kia!

- Thưa cha, con đâu thể nào làm được, vì bây giờ chúng đã bay khắp nơi, và có nhiều lông bay ra khỏi làng ta rồi!

- Con à, vị cha xứ nói, những lời nói xấu và vu cáo cũng như thế đấy, con không sẽ chẳng bao giờ thu lại được!”

Thinh lặng cũng có thể biểu hiện cho một tâm hồn cao thượng và đại lượng đối với những yếu đuối của tha nhân: “Kẻ thiếu lương tri mới khinh khi người khác, người giàu hiểu biết thì ngậm miệng làm thinh”. (Cn 11,12). Chính lòng nhân hậu, tình thương, sự tôn trọng kẻ khác mới giữ chúng ta khỏi rêu rao, loan truyền một chuyện ô nhục, một kỷ niệm đau lòng nào đó, hầu không thêm gánh nặng cho người đã bị tổn thương. Thái độ lịch sự và tế nhị thường đi đôi với thinh lặng.

Và trước sự đớn đau hay trước nỗi khổ của một bạn hữu hay một anh em, thì tốt hơn là nên thinh lặng, như Gióp đã nói với những người đến thăm ông và nói huyên thiên để an ủi ông: “Phải chi các anh biết nín lặng! Như thế các anh mới là người khôn ngoan” (G 13, 5).

Thật khó mà không đáp lại một lời chửi rủa bằng một lời chửi rủa, một tiếng la hét bằng cách nói lớn tiếng. Cần phải có một sức mạnh tâm hồn để đôi khi biết thinh lặng trong một cuộc cãi vã mà cảm xúc vượt qua lý trí. Lòng kiêu ngạo bị tổn thương thì tự nhiên tìm cách nói tiếng nói cuối cùng. Không dễ gì im lặng khi ta tin chắc rằng mình đang có lý.

Nhất là rất khó im lặng khi người vô liêm sĩ hay độc ác có vẻ thắng thế: “Tôi đã nói: ‘mình phải giữ gìn trong nếp sống, để khi ăn nói khỏi lỗi lầm; tôi quyết sẽ ngậm tăm, bao lâu người gian ác còn đối mặt’. Tôi câm lặng làm thinh chẳng hé môi, màkhông ích lợi gì, nên cơn đau lại càng nhức nhối. Nghe trong mình nung nấu tự tâm can, càng nghĩ ngợi, lửa càng bừng cháy, miệng lưỡi tôi phải thốt nên lời” (Tv 38, 2-4).

Hẳn là không lành mạnh nếu để cho người khác chà đạp mình. Biết tự vệ đôi khi là một vấn đề phẩm giá và công bình. Nhưng sức mạnh của một người thinh lặng, ấy là không để sa mình vào một cơn giận giữ không kềm chế và biết phân định cơ hội để đáp trả.

Chúng ta chẳng thường hối hận vì mình dễ dàng để cho những phản ứng tức thì lôi cuốn chúng ta đi mà không kịp cân nhắc lời nói sao? Đôi khi, sự thinh lặng lại hùng biện hơn. Ta có thể cho rằng lời nói, trong thời điểm ấy, sẽ không làm gia tăng tình yêu và chân lý, vì người anh em mình không ở trong trạng huống cần thiết để lắng nghe.

Sau cùng, đối với các hiền nhân trong Kinh Thánh, sự khôn ngoan thần túy nhân loại này cũng đã là một ân sủng của Thiên Chúa, Đấng giúp chúng ta phân định lúc nào nên nói và lúc nào nên im. “Lạy Chúa, xin canh giữ miệng lưỡi con và trông chừng môi miệng con” (Tv 140,3).

Làm chủ miệng lưỡi như thuỷ thủ cầm lái điều khiển con thuyền

Cũng có sự thinh lặng của người có đức tin, họ thinh lặng trước bí mật trần gian hay trước hành động của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của mình: “Thời buổi này, ai khôn ngoan thì làm thinh, vì đây là một thời khốn quẫn” (Am 5,11). Đấy là sự thinh lặng của Gióp; sau khi đã nói nhiều lời vô ích, ông công nhận: “Con đã nói năng thiếu suy nghĩ, con biết trả lời làm sao? Con sẽ đưa tay lên che miệng...” (G 40,4), hoặc sự thinh lặng của người công chính; qua gian truân thử thách của dân mình, ông vẫn hy vọng vào chiến thắng cuối cùng của Đấng Tác Sinh và Người Chủ của vận mệnh con người: “Đức Chúa xử tốt với ai tin cậy Người, với ai hết lòng tìm kiếm Chúa. Biết thinh lặng chờ đợi ơn cứu độ của Đức Chúa... hãy cứ ngồi im lặng một mình” (Ac 3,25tt).

Sự thinh lặng của kẻ tin trong Kinh Thánh không phải là một sự cam chịu đầu hàng và cũng không phải là tuyệt vọng, nhưng mặc cho thử thách, đấy là một sự tin tưởng nhẫn nại vào tình yêu và sự thành tín của Chúa.

Trong Tân Ước, ta không hề tìm ra bản phân tích về những ơn ích và những hàm hồ của sự thinh lặng. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy đoạn dài sau đây trong thư thánh Giacôbê, như một âm vang của suy tư theo chiều hướng các sách Khôn Ngoan:

“Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão. Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân. Nếu ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa để chúng vâng lời, thì ta điều khiển được toàn thân chúng. Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn, và có bị cuồng phong đẩy mạnh thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất nhỏ để điều khiển theo ý của người lái. Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao! Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa...

Mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự và đã chế ngự được. Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người. Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa. Thưa anh em , như vậy thì không được. Chẳng lẽ một mạch nước lại có thể phun ra, từ một nguồn, cả nước ngọt lẫn nước chua sao? Thưa anh em, làm sao cây vả lại có thể sinh ra trái ô-liu, hoặc cây nho sinh trái vả? Nước mặn cũng không thể sinh ra nước ngọt”(Gc 1,26 ; 3,2-12).

Ngôn ngữ là một trong những điều cao cả của con người, tuyệt tác của công trình sáng tạo. Lời nói chúng ta, khi phục vụ cho điều lành hay điều dữ, đều mang theo hương thơm hay mùi hôi thối của nguồn nước bên trong, nơi nó xuất phát đó là cõi cõi lòng của chúng ta!

Những con người thinh lặng

Georges Bernanos viết trong tác phẩm Sous le soleil de Satan (Dưới mặt trời của Satan) như sau: “Thánh nhân được chín mùi trong thinh lặng”.

Thật sự Thiên Chúa luôn có một đường lối sư phạm. Người luôn khởi sự bằng cách đưa vào ‘sa mạc’ những ai mà Người muốn trao phó một sứ mạng khó khăn hầu phục vụ dân Người: Môsê vào sa mạc Madian, Gioan Tẩy giả vào sa mạc Giuđê, thánh Phaolô vào sa mạc Xyria, thánh Biển Đức vào nơi hoang vắng trên núi Subiaco, thánh I-nhã Loyôla vào Marêsa, thánh Phanxicô Assisi trong các hang của đồng bằng Assisi.

Đây là thời điểm của sự thật mà con người ý thức về sự nghèo hèn của mình và mở lòng đối với ân huệ của Thiên Chúa. Thời điểm để cắm rễ cho đức tin. Thời điểm phải thực hiện sự đoạn tuyệt cần thiết để đón nhận một tự do mới và chuẩn bị sống một đời sống hiệp thông mới với mọi người. Tất cả các vị chứng nhân vĩ đại ấy, những người đã đánh dấu lịch sử Cứu Độ, sẽ vẫn mãi là những người yêu mến sự thinh lặng, dù nhiều khi họ sống một nếp sống thật năng động.

Làm sao có thể tự xưng là chứng nhân của Đức Kitô nếu ta không sống đời thinh lặng theo gương các thánh trên đây, diễn tiến theo nhịp điệu: thờ lạy Chúa Cha và phục vụ con người! Ai không thích thinh lặng, người ấy có nguy cơ trở nên một con két nói chuyện tôn giáo, một viên chức quản lý việc thánh, chứ không phải là một cộng tác viên của Thiên Chúa.

 Tác giả thánh vịnh ca lên: “Lạy Chúa, đối với Người, ngay cả thinh lặng cũng là lời ngợi khen” (Tv 64).  Vì thế, từ những vị ẩn sĩ đầu tiên đến các nam nữ đan sĩ ngày nay, hàng trăm ngàn người nam nữ đã biểu lộ sự yêu chuộng của mình đối với sự cô tịch, không phải vì bản thân sự cô tịch mà vì muốn kiếm tìm Thiên Chúa tại nơi ấy. Một cách biểu trưng, thánh Becnađô xem đấy là một phép thanh tẩy lần thứ hai: “Người đan sĩ này đã được chôn lại với Đức Kitô nhờ phép thanh  tẩy trong sa mạc” (Thư 250 cho viện phụ ở Portes).

Họ đặc biệt được cuốn hút bởi một câu phỏng theo ngôn sứ Hôsê mà ta thường thấy được ghi ở cổng vào tu viện họ: “Này ta sẽ khuyến dụ con, đưa con vào sa mạc và nói khó với lòng con!” (x. Hs 2,16). Họ luôn xem nơi vắng vẻ là nơi cần thiết để có được một tình thân mật với Thiên Chúa, để mở lòng ra với Người.

Charles de Foucauld  cho rằng: “Cần phải thông qua sa mạc và ở lại đó để nhận được ân sủng của Thiên Chúa... Sa mạc này đối với tôi thật là êm ái dịu dàng: thật là êm ái và lành mạnh khi cảm nhận được sự cô tịch, đối diện với những điều vĩnh cửu! Ta cảm thấy chân lý tràn ngập bản thân mình. Vì thế, tôi cảm thấy rất khổ tâm khi phải đi đây đó, phải lìa xa sự cô tịch và thinh lặng này.” (Sách thiêng liêng).

Tương quan giữa cô tịch và thinh lặng ăn sâu vào truyền thống mấy nghìn năm của đời sống đạo trong mọi tôn giáo. Nhưng, như chúng ta đã thấy, sự cô tịch không phải là điều đương nhiên.Như Bernanos đã viết: ‘Hỏa ngục cũng có nội cấm’ (Sous le soleil de Satan). Các giáo phụ trong sa mạc đã nói lên đầy đủ về cuộc chiến và thử thách của các ngài để chúng ta biết rằng một thời gian dài cư ngụ trong cô tịch không phải là cuộc ‘sống nhàn’ êm ái.

Sự cô tịch cũng có thể có những ảnh hưởng nguy hại đối với một số người, những người nóng nảy hay đa cảm, trên bình diện quân bình nhân bản cũng như trên bình diện thiêng liêng. Ta không thể đột nhiên đi từ một nếp sống hoạt động sang sa mạc, xa cách mọi cuộc dấn thân trực tiếp, mà đồng thời không cảm thấy một sự nghèo nàn khô cằn, mà không rơi vào một thế giới tưởng tượng hàm hồ và chạy theo tiến trình cổ điển của những luật bù trừ khác nhau.

Sự cô tịch không phải là nơi hẹn lý tưởng cho mọi người vào mọi lúc. Điều hiển nhiên đầu tiên, ấy là người nào mong sống cô tịch để tự tìm kiếm chính mình hay để lập một kỷ lục, người ấy sẽ không thể ở lâu ngày trong cô đơn.

Nhà Thiên Chúa có nhiều chỗ ở, và có nhiều con đường dẫn về nhà ấy. Như thế, nếp sống cô tịch dài ngày không phải là con đường duy nhất để gặp gỡ Thiên Chúa. Trái lại, không ai có thể bỏ đi hoàn toàn cái thời gian định kỳ dành cho thinh lặng và cô tịch.

Có nhiều hình thức cô tịch. Và Chúa ban cho mỗi người hình thức thinh lặng thích hợp với mình. Trong cuộc đời mình, có những giai đoạn thuận lợi và cần thiết hơn những giai đoạn khác. Thời gian và chu kỳ tùy thuộc vào sự phân định nhân bản và thiêng liêng, và sự phân định ấy cần phải được thực hiện với sự đồng hành của một vị linh hướng kinh nghiệm.

Những ân sủng và lời gọi của Thiên Chúa thật đa dạng. Không phải ai cũng được kêu gọi làm nhà ẩn tu trong sa mạc hoặc đan sĩ Xitô hay đan sĩ Brunô. Cuối cùng, như đã nói trên, mọi ơn gọi, dù là ơn gọi sống cô tịch nhất, đều gắn liền với một sứ mạng. Từ thuở Abraham, tiếng gọi của vị Thiên Chúa Giao Ước, khi được trở thành người, luôn hướng về sự cứu độ và tương lai của dân Chúa. Chẳng hạn, cha Voillaume đã nói như sau về cha Foucauld: “Ơn gọi của cha (Foucauld) là một ơn gọi hiện diện giữa các dân tộc, một sự hiện diện làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô” (Au Coeur des Masses).

Nghịch lý này chỉ là lớp vỏ bên ngoài, vì kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng chúng ta có thể rất hiện diện bằng tư tưởng và bằng tấm lòng đối với những người ở thật xa, và lại rất vắng mặt đối với chị em giữa cộng đoàn. Ta không thể lẫn lộn sự gần gũi và sự hiện diện. Không phải chỉ cần ở gần những người láng giềng là hiện diện đối với họ. Thánh Têrêxa thành Lisieux đã chẳng phải từng được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo đó sao? Trong khi thánh nữ chưa bao giờ rời Nhà Kín, nơi mà thánh nữ đã nói: “Tôi sẽ là tình yêu, do đó tôi sẽ là tất cả.”

Chính phẩm chất tình yêu đốt cháy lòng ta mới làm cho sự cô tịch hay sự gần gũi biến thành sự hiện diện đích thực. Con đường tốt nhất là con đường mà Thiên Chúa muốn chúng ta đi, con đường mà hoàn cảnh chúng ta chỉ định, mà tính khí chúng ta đòi buộc, và tóm lại, con đường mà chúng ta có thể mến Chúa yêu Người nhiều hơn.

Thinh lặng và lời nói

“Thinh lặng không gì khác hơn là lời nói nội tâm” (L. Lavelle, La parole intérieure). Ở bình diện thứ nhất, thinh lặng mở lòng để chúng ta nghe tiếng nói của ý thức mình. Thật vậy, đối với con người, một tư tưởng có giá trị gì đâu nếu không có từ ngữ để diễn đạt?  Cũng vậy, thinh lặng mà thiếu lời nội tâm, chẳng phải chỉ là sự trống rỗng của vô thức sao? Ở bình diện thứ hai, thinh lặng mở lòng để chúng ta nghe Tiếng Chúa chạm đến ‘lòng’ mình qua lời của Chúa Kitô và sự linh hứng của Thần Khí.
Như vậy, thinh lặng không phải là vắng bóng hay khước từ lời nói, nhưng trái lại, đấy là đón nhận lời nói nội tâm, nơi xuất phát của mọi lời bên ngoài. “Các tâm hồn chìm xuống trong thinh lặng, như vàng và bạc chìm xuống trong nước tinh khiết, và những lời chúng ta nói chỉ có ý nghĩa nhờ sự im lặng nơi nó tắm mình” (Maeterlinck, Le trésor des Humbles).

Nếu lời nói không được bao phủ, xen kẽ bằng thinh lặng, nó sẽ trở nên một loạt ngôn từ và âm nhạc sẽ trở thành những âm thanh chói tai! Thiếu thinh lặng đi trước và theo sau, lời nói con người và âm nhạc chỉ còn là một chuổi những âm thanh liên tục khiến không ai chịu nổi! Thinh lặng đem lại cho mỗi ngôn từ và mỗi nốt nhạc sức nặng và màu sắc đặc trưng. (đám cưới, lễ ồn quá).

Như thế, chẳng phải là tình cờ mà, trong truyền thống Kinh Thánh, thinh lặng đi trước hoặc nối dài Lời, làm rõ nghĩa cho cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và con người. Những cảnh ‘Thần Hiển’ hay ‘Thiên Chúa tỏ mình’ thường được bao phủ bằng một sự thinh lặng cung kính bao la. “Còn Đức Chúa, Người ngự trong thánh điện, toàn thể trái đất, hãy thinh lặng trước nhan Người!” (Kb 2,16). Và lời loan báo về một lần can thiệp của Người, vì lợi ích của dân Người, thường đi đôi với một lời mời gọi phải chờ đợi trong thinh lặng:

Hãy thinh lặng trước Tôn Nhan Thiên Chúa, vì Ngày của Chúa đã đến gần” (Xp 1,7). “Hỡi các đảo, hãy thinh lặng nghe tôi, Mong các dân được thêm sức mạnh, Tiến lại gần và lên tiếng nói!” (Is 40,1). “Hỡi mọi xác phàm, hãy thinh lặng trước nhan Đức Chúa! Bởi vì Người tỉnh giấc và ra khỏi Nơi Thánh của Người” (Dcr 2, 17). “Khi Con Chiên mở ấn thứ bảy, thì cả trời yên lặng chừng nửa giờ...” (Kh 8,1).

Như thánh Gioan đã viết trong lời tựa tuyệt vời của ngài, “Lúc khởi đầu... Ngôi Lời là Thiên Chúa” và Ngôi Lời ấy như được bao phủ trong một sự viên mãn lặng thinh. “Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba, thì từ trời cao thẳm, Lời toàn năng của Ngài đã rời bỏ ngôi báu” (Kn 18, 14-15).

Về vấn đề Đức Kitô nhập thể, thánh Phaolô nói rằng đấy là Lời mặc khải, là ‘một mầu nhiệm vốn được giữ thinh lặng từ ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh’ (Rm 16, 25).

Thinh lặng đi trước và theo sau Lời Mặc Khải. Xưa kia cũng như ngày nay, Lời chỉ có thể ‘sinh ra’ trong lòng một người và trong lòng nhân loại thông qua một sự chín mùi lâu dài, trong thinh lặng và âm thầm: sự thinh lặng siêu hình của Thiên Chúa, một tình yêu tác tạo.

Sự thinh lặng biết lắng nghe

Nếu trong Kinh Thánh Thiên Chúa ‘nói’ với dân Người, thì ta hiểu rằng ‘lắng nghe’ là đặc điểm của truyền thống Kitô Do Thái giáo.

Hỡi Israen, hãy im lặng mà nghe! Hôm nay ngươi đã trở thành dân của Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi. Ngươi hãy nghe tiếng Đức Chúa. Thiên Chúa ngươi, và đem ra thực hành những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người” (Dnl 27,9).

Nhưng đối với con người trong Kinh Thánh, “Lời Thiên Chúa” không rơi từ trời xuống như một thiên thạch, hay một tiếng nói vọng từ trong sân khấu.  Nó ‘sinh ra’ khi biến cố gặp gỡ con người sống các biến cố đó, chẳng hạn như biến cố dân Chúa đã kinh qua: ra khỏi Aicập, lưu dày ở Babylon. Lịch sử một dân tộc và sứ điệp được loan báo bởi những con người từng có kinh nghiệm thiêng liêng (được linh hứng) thì không thể tách rời nhau, khi nói đến khái niệm ‘Lời Chúa’ trong Kinh Thánh.

Suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa đã cho nổi lên những ‘người trung gian’, Abraham, Môsê, các ngôn sứ, các hiền nhân. Những người này, trong sự thinh lặng của sa mạc hay của lòng mình, đều lắng nghe Thần Khí, suy nghĩ và giải thích ý nghĩa sâu xa của lịch sử dân tộc mình và nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, một sự Hiện Diện luôn hành động. Như thế, các biến cố ấy trở thành ‘Lời Chúa’, trở thành những sứ điệp có thể hiểu được và cần được truyền lại cho toàn dân.

Trong chiều hướng đó, trong các tác phẩm của thánh Gioan chẳng hạn, động từ ‘lắng nghe, nghe’ có một tầm quan trọng rất lớn. Chữ ấy trở đi trở lại 58 lần trong Phúc âm thánh Gioan, 16 lần trong các thư tín của ngài và 46 lần trong sách Khải Huyền. Nó là một thành phần của từ vựng mặc khải. 22 lần là ‘nghe’ Chúa Giêsu, con người Ngài, ‘nghe’ lời nói và tiếng nói của Ngài, và 4 lần là ‘nghe’ Chúa Cha hay tiếng của Cha.

Chúa Giêsu - rất quen thuộc với thinh lặng - tự giới thiệu mình là người nói, mặc khải, làm chứng về điều mình đã nghe. Ngài thường sống trong thái độ lắng nghe Cha Ngài. Ngài là ‘Đấng đến từ trên cao... để làm chứng về điều mình thấy và nghe” (3,31-32). “Đấng sai tôi thì chân thật và điều tôi nghe nơi người cũng chân thật, đấy là điều mà tôi công bố cho thế gian’ (8,26).

Và người Do Thái muốn giết Ngài vì Ngài nói, Ngài mặc khải sự thật. “Bây giờ các ông muốn giết tôi, tôi là người đã nói sự thật mà tôi đã nghe nơi Thiên Chúa” (8,40). Ngài là Ngôi Con, Đấng đã tỏ cho môn đệ - mà Ngài xem là ‘bạn hữu’ - biết mọi điều Ngài đã ‘nghe’ nơi Cha Ngài. “Mọi điều Thầy nghe được nơi Cha, Thầy đã cho anh em biết” (15,15).

Người môn đệ, theo gương Ngài, là người biết lắng nghe. Hành trình đức tin, hành trình theo Chúa Kitô luôn khởi đầu bằng một lời mà ta nghe được. Do đó, chính vì ‘nghe lời’ của thầy mình mà hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả đã ‘theo Đức Giêsu’. Nhưng, lời của Chúa Giêsu thì lại càng sâu sắc hơn nữa.

Đó là điều mà những người Samari tuyên bố khi họ nghe được lời chứng của người phụ nữ từ giếng Giacóp quay về. “Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: ‘Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng cứu độ trần gian” (4,41-42).
Nếu lời của người phụ nữ đã đánh thức đức tin của họ, thì lời Đức Giêsu, sau khi được ‘lắng nghe’ và ‘nghe ra’, đã thay đổi cái đức tin non trẻ ấy thành một xác tín cá nhân: “Người này là Đấng cứu độ”. Nghe là một yếu tố căn bản cho đức tin.

Trong tác phẩm thánh Gioan, có một tương quan mật thiết giữa ‘nghe lời Chúa’ và ‘tin’. “Ai nghe lời tôi và tin và Đấng đã sai tôi thì có sự sống đời đời” (5, 24). Lắng nghe lời Đức Giêsu, nhận ra đấy là lời của Đấng Thiên Sai và tin vào lời ấy, gắn bó với lời ấy như gắn bó với lời của chính Chúa Cha, tất cả những hành động ấy đều là một. Thế nhưng hành động ‘lắng nghe và nghe’ ấy đòi hỏi một số tư thế nội tâm, mà tư thế căn bản là đón nhận và suy tư trong thinh lặng của lòng mình.

Việc lắng nghe ấy không phải là hệ quả của những cuộc thảo luận vô bổ, mà là kết quả ‘sự thinh lặng biết lắng nghe’, và đó đã là một tác động của Thiên Chúa để thôi thúc lòng con người mở ra hầu đón nhận mặc khải của Người. “Không ai đến được với tôi nếu Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy...” Trong sách Ngôn sứ, có lời chép rằng: “Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai đã nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với tôi” (6,44-45).

Một chủ đề khác cũng gần với chủ đề ấy, trong thánh Gioan, ấy là chủ đề ‘nghe tiếng’, bao hàm một tương quan trực tiếp hơn với chính con người Giêsu: Tiếng ấy là ‘tiếng’ của Con Thiên Chúa, (5,25) của “Con loài người”, của Đấng xét xử kẻ sống và kẻ chết (5,27-29), của Người Chăn Chiên Lành, (10, 3-5, 16-17), của vị vua và chứng nhân cho chân lý (18, 37).

So sánh với lời nói, thì ‘tiếng nói’ làm ta liên tưởng rõ ràng hơn đến một lời gọi, một lời mời khẩn thiết. Khi nghe ‘tiếng’ Thầy ‘gọi’, Maria vội vã đứng lên và đến với Chúa Giêsu (11,28-29). ‘Nghe’ và nhất là ‘lắng nghe’ tiếng thì đòi hỏi phải có mối liên hệ thuộc về nhau giữa người gọi và người được gọi.

Về phương diện này, bài giảng về Đấng Chăn Chiên lành soi sáng cho chúng ta nhiều và cho ta thấy cái tương quan thân mật khi nói đến việc ‘lắng nghe’ tiếng Chúa. Chiên của Ngài ‘lắng nghe tiếng Ngài’, vì mỗi con được gọi đúng tên mình và chúng nhận ra tiếng của Chủ Chăn. Như Maria Magdala sẽ ‘nhận ra’ tiếng của Thầy mình chỉ khi nghe một người gọi tên mình: “Maria!”; như hôn thê trong Diễm ca ‘nhận ra’ tiếng của Người Yêu (2,8; 5,2; 8,13). Maria nhận ra Ngài không phải vì nhìn thấy Ngài (bởi lẽ chị ngỡ là người làm vườn) nhưng vì giọng nói của Ngài, vì nghe ‘tiếng’ Ngài. Cũng thế, Gioan Tẩy Giả so sánh mình với bạn của tân lang và ông ‘đứng đó lắng nghe, hớn hở vui mừng vì nghe tiếng tân lang” (3,29).

Lời Chúa chỉ có thể chạm đến lòng của người nào sẵn sàng, một người ở trong tư thế lắng nghe. Chỉ người nào tìm kiếm Thiên Chúa, yêu mến thinh lặng, ‘lắng nghe Thiên Chúa’, thi mới nghe được mà thôi.

Michel Hubaut 
Share:
Được tạo bởi Blogger.

Thống kê

Top Menu

Theme Support